image banner
Lào Cai 29° - 31°
Hướng dẫn nhận biết và phòng trừ sâu, bệnh chính hại cây chè

 Chè là cây công nghiệp lâu năm và là một trong những cây trồng chủ lực có giá trị, sản phẩm thường xuyên ổn định, đảm bảo cuộc sống cho rất nhiều người dân trên địa bàn tỉnh Lào Cai. Do đặc điểm sinh trưởng, chè là cây trồng lâu năm, nên nguồn sâu bệnh luôn tồn tại và tích luỹ trên nương chè, đồng thời thành phần sâu bệnh hại rất phong phú và đa dạng. Một số sâu hại phổ biến có khả năng phát sinh gây hại mạnh trên cây chè như: bệnh phồng lá, bệnh thối búp, rầy xanh, bọ xít muỗi, bọ cánh tơ, nhện đỏ…

Nhằm bảo vệ an toàn cho các nương chè và nâng cao chất lượng chè, Chi cục Thú y và BVTV tỉnh khuyến cáo bà con tích cực kiểm tra, phát hiện và phun phòng trừ các loại sâu bệnh hại kịp thời, hiệu quả, cụ thể:

1. Bệnh phồng lá (do nấm Exobasidium vexans) gây ra.

- Triệu chứng gây hại:

- Bệnh thường phát sinh ở các bộ phận non của cây (lá non, lá bánh tẻ, cành non và quả non). Ban đầu, trên lá xuất hiện với vài đốm nhỏ màu xanh trong giọt dầu hoặc màu xanh vàng, chỗ lá bị bệnh bóng lên bất thường. Sau đó vết bệnh to dần và lõm xuống ở mặt trên lá, vết bệnh ở mặt dưới lá thì phồng lên như mụn bỏng.

anh tin bai

Bệnh phồng lá gây hại chè

- Ở mặt dưới lá chỗ vết phồng bao phủ một lớp nấm mịn màu xám tro hoặc màu trắng hồng. Cuối cùng mô bệnh bị vỡ ra, rách nát, vết bệnh bị héo khô hoặc thối ướt tùy thuộc vào thời tiết khô hanh hay mưa ẩm. Vết bệnh thường có đường kính từ 2-10mm nằm riêng hoặc ở đầu vết lá non. Khi vết phồng nát vụn, làm lá khô cháy, dễ rụng. Khi vết bệnh ở trên gân chính làm phiến lá nhăn nhúm, dị hình.

- Trên quả non và cọng non vết bệnh ít thể hiện nốt phồng rõ rệt. Khi đó chúng có dạng hình tròn hoặc hình bầu dục dài, hơi lõm. Ban đầu sẽ có màu trắng, sau chuyển thành nâu đen.

- Điều kiện phát sinh, phát triển của bệnh.

Khi vết bệnh phồng rộp vỡ ra sẽ phóng thích bào tử, bào tử bệnh nhờ gió, mưa lan truyền sang các cây chè khác. Bào tử rơi vào lá khi ẩm độ không khí cao (lá ướt hoặc sương) sẽ nảy mầm, khuẩn ty bám sâu vào trong lá và phát triển thành đám, sau 3 - 4 ngày xâm nhiễm sẽ thể hiện trịệu chứng bệnh. Sau 7 - 10 ngày tiếp tục chu trình lây lan mới.

- Bệnh phồng lá chè phát sinh trong thời kỳ nhiệt độ ôn hoà 15-200C, ẩm độ cao 90% trở lên và nhất là có sương mù hoặc mưa phùn kéo dài từ 15 ngày trở lên. Bệnh thường hại mạnh vào mùa xuân (từ cuối tháng 2 đến đầu tháng 5). Mùa thu (cuối tháng 9 đên cuối tháng 10) bệnh cũng phát sinh gây hại song nhẹ hơn. Khi nhiệt độ không khí từ 250C trở lên, nắng nhiều, khô nấm gây bện này không phát triển được.

-  Những nương chè trồng ở vùng có độ cao 600 – 700 mét so với mặt biển, nương chè quản lý không tốt, cỏ dại nhiều, khuất gió và nhiều cây che bóng bệnh phát sinh và gây hại nhiều hơn. Bệnh cũng phát sinh gây hại nhiều hơn ở những nương chè bón nhiều phân đạm và nương chè trồng bằng các giống chè có bản lá to.

- Tác hại của bệnh phồng lá chè: Bệnh phồng lá chè gây nhiều tác hại nghiêm trọng đến sinh trưởng, năng suất và chất lượng búp chè.

Bệnh có thể gây chết cành non, lá non, ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây. Cây chè bị bệnh hại nặng sẽ hồi phục rất chậm, sau khi bị nhiễm bệnh 2 tháng vẫn có thể chưa được thu hoạch lứa tiếp theo. Bệnh không chỉ làm giảm năng suất mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến phẩm chất chè thương phẩm (thường có vị đắng).

- Biện pháp phòng trừ:

+ Thường xuyên làm cỏ và vệ sinh vườn chè, không đốn tỉa quá sớm vì cành non rất dễ nhiễm bệnh; Thiết kế vườn chè với mật độ cây hợp lý giúp vườn chè thông thoáng và hạn chế ẩm độ trong vườn; Nên trồng các giống chè kháng bệnh; Bón phân cân đối và đủ NPK theo đúng quy trình.

+ Khi bệnh xuất hiện tiến hành tỉa các lá và búp chè bị bệnh, hạn chế sự lây lan. Tiêu hủy tàn dư cây bệnh.

+ Có thể lựa chọn một trong các loại thuốc sau để phun phòng trừ bệnh phồng lá như:  Amtech 100EW, Stifano 5.5SL, Manage 5WP, Starsuper 10SC, 20WP, 21SL, …

2. Bệnh thối búp (Do nấm Colletotrichum theae) gây ra.

- Triệu chứng gây hại: Vết bệnh đầu tiên là một chấm nhỏ màu nâu đen trên phần non mềm của lá và búp chè. Các vết bệnh phát triển lớn dần lên gây thối đen lá non và búp. Bệnh chỉ phát triển gây hại đến hết phần xanh trên cành búp và ngừng lại ở phần cành búp đã nâu hoá.

anh tin bai

Bệnh thối búp hại chè

- Đặc điểm phát sinh phát triển: Bệnh phát sinh và phát triển trong điều kiện nóng ẩm độ cao từ tháng 5 đến tháng 11, nhưng nặng nhất vào khoảng tháng 7,8,9 ở các tỉnh phía Bắc. Bệnh thường gây hại từng khu vực hoặc từng nương chè, làm giảm năng suất và chất lượng búp chè. Bệnh thường phát sinh phát triển gây hại nhiều trên các nương chè bón nhiều đạm, bón phân khoáng không cân đối. Giống chè PH1 dễ bị nhiễm bệnh và bệnh gây hại nặng hơn các giống chè khác.

- Biện pháp phòng trừ bệnh

+ Thường xuyên kiểm tra nương chè, lưu ý kiểm tra những nương chè đã bị bệnh hại từ năm trước để phát hiện sớm và chủ động phòng, trừ. Những nương chè thường xuyên bị bệnh phồng lá gây hại nặng cần đốn muộn hơn so với thời vụ và cần thu gom tất cả các cành lá mang đi tiêu hủy.

+ Thiết kế vườn chè với mật độ cây hợp lý, thường xuyên vệ sinh nương chè, diệt trừ cỏ dại giúp vườn chè thông thoáng và hạn chế ẩm độ trong vườn. Nếu cây che bóng quá nhiều có thể tỉa bỏ bớt cành giảm bóng và tạo độ thông thoáng.

+ Cần bón phân cân đối giữa phân hữu cơ, phân đạm, lân, kali tùy theo tuổi cây và chất đất. Vùng thường nhiễm bệnh nên bổ sung thêm lượng kali để tăng sức chống bệnh cho cây chè, không nên bón quá nhiều đạm.

+ Khi thấy xuất hiện bệnh phải dừng ngay việc chăm bón, cần hái búp sớm, hái chạy và tỉa bỏ toàn bộ các lá, búp, cành bị bệnh thu gom mang đi tiêu hủy nhằm hạn chế sự lây lan của bệnh, đồng thời sử dụng một số loại thuốc đặc trị bệnh như:  Starsuper 20WP, Stifano 5.5SL, Yomisuper 23WP, Starone 20WP, … phun 2 lần, cách nhau 7 - 10 ngày.

3. Rầy xanh (Empoasca flavescens).

Rầy xanh gây hại làm giảm nghiêm trọng năng suất và chất lượng búp chè. Những vườn chè con mới trồng rầy xanh gây hại làm khô ngọn, cây cằn cỗi sinh trưởng chậm và có thể bị chết gây hiện tượng mất khoảng trên nương chè.

- Đặc điểm hình thái

+ Trưởng thành (2 - 21 ngày): Thân dài từ 2,5 – 4 mm, màu xanh lá mạ. Đầu hơi hình tam giác, chính giữa đỉnh đầu có đường vân trắng, và hai bên có chấm đen nhỏ. Cánh trong mờ, màu xanh lục, xếp úp hình mái nhà. Rầy trưởng thành đẻ trứng rải rác vào mô non cọng búp và gân chính của lá chè. Một búp chè thường có từ 2 – 3 trứng, có khi 6 – 8 trứng.

+ Trứng (5 - 8 ngày): Có hình hơi cong dạng quả chuối, dài khoảng 0,8 mm. Trứng mới đẻ màu trắng sữa, sắp nở có màu lục nhạt hay hơi nâu.

+ Rầy non (mùa Xuân: 9 – 11 ngày; mùa Hè: 7 – 8 ngày; mùa Đông: 14 – 16 ngày): Rầy xanh non có 5 tuổi, tuy chưa có cánh nhưng gần giống trưởng thành. Rầy mới nở màu trắng trong suốt, dài 1 mm. Rầy càng lớn chuyển dần sang màu xanh. Cuối tuổi 5 cơ thể dài 2 mm.

- Phát sinh, gây hại

Rầy thích điều kiện râm mát, ẩm độ không khí cao. Rầy trưởng thành và rầy non không thích ánh sáng mặt trời nên ban ngày ẩn nấp mặt dưới lá chè, rầy thường di chuyển ngang, thấy động nhảy khỏi nơi đậu.

Cả rầy non và rầy trưởng thành tập trung ở phần búp lá non hút nhựa dọc gân lá khiến lá biến dạng cong queo, trên có các đốm nhỏ vàng. Lá bị vàng, khô nóng sẽ bị khô gây “cháy rầy”, cằn cỗi, lá bị hại nhẹ có màu hồng tím, ở vụ Xuân khi búp chè có màu vàng tím hồng, là lúc này rầy non đang phát triển nhiều. Khi bị hại nặng đọt non bị cong, gặp thời tiết khô nóng các lá non bị hại khô dần từ đầu, mép lá trở vào và có thể khô tới ½ diện tích lá. 

Rầy thường tấn công nhiều ở đồi chè còn non, nhiều cỏ dại , ít chăm sóc, ở nơi khuất gió, chè đốn phớt, gần rừng cây, trồng xen, giống chè Shan, trung du. Hàng năm rầy thường phát sinh gây hại vào hai thời vụ chính: tháng 3 – 5 và tháng 10 – 11. Trời mưa to, thời gian mưa kéo dài hoặc khô hạn gây bất lợi cho sự phát triển của rầy. Điều kiện thuận lợi cho rầy gây hại và sinh sôi nảy nở là lúc thời tiết chuyển từ lạnh sang nóng hoặc nắng mưa xen kẽ.

Trong các giống đang trồng hiện nay, giống PH1 bị hại nặng nhất, tiếp đến là giống Trung du. Các giống PH1 và đại bạch trà bị hại ít hơn.

Rầy xanh còn là đối tượng trung gian truyền bệnh khảm (virus) cho cây.

Dùng một trong các loại thuốc như Tiptof 16SG, Comda gold 5WG, Emaben 60SG, Applaud10WP, Encofezin 10 WP, Mospilan 3 EC,… phun trừ.

4. Nhện đỏ hại chè (Brevipalpus phoenicis)

- Đặc điểm hình thái: Kích thước nhỏ (0,28 mm × 0,16 mm), không nhìn thấy bằng mắt thường, cơ thể dẹt, có màu đỏ tươi. Sinh sản đơn tính, trứng được đẻ đơn lẻ. Thích hợp nhiệt độ 19,1 – 23,40C, vòng đời là 33,5 ngày. Hàng năm nhện đỏ phát triển mạnh vào các tháng nắng nóng, ít mưa (điều kiện khô hạn).

- Phát sinh, gây hại: Nhện non và nhện trưởng thành sống chủ yếu ở gân chính của mặt dưới lá và cuống lá. Các vết châm nhiều tạo nên các mảng thâm đen kèm theo các vết nứt ngang nhỏ. Bị hại nặng búi chè xơ xác, tán lá mỏng, lá chè già và lá chè bánh tẻ bị rụng, cây bị kiệt không phát lộc, nhất là trong những tháng khô hạn.

Trên các cây trồng khác như cam chanh, nhện đỏ có thể truyền bệnh virus tạo nên các khối u sần sùi, trên cây cà phê chúng truyền bệnh virus đốm vòng, trên cây chanh dây (chanh leo) làm cho quả lốm đốm vì vết chích của chúng, làm cho lá rụng.

- Biện pháp phòng trừ: Bón phân cân đối, chọn giống tốt, chống chịu với sâu bệnh… vệ sinh đồng ruộng, bón phân chuồng hoai mục, bón vôi cân đối đầy đủ.

+ Bảo vệ thiên địch trên nương.

+ Áp dụng biện pháp đốn đau và tưới phun ở những nơi có điều kiện.

+ Tủ gốc giữ ẩm để cây chè phát triển mạnh sẽ hạn chế sự gây hại của nhện hại.

+ Phun một số thuốc sau: Emaben 2.0EC, 3.6WG, Golnitor 20EC, 50WG, Mikmire 2.0EC, Asiangold 500SC, Proclaim1.9 EC, …

Lưu ý: Nồng độ, liều lượng sử dụng theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Chỉ sử dụng các loại thuốc trong danh mục và đảm bảo thời gian cách ly trước khi thu hoạch sản phẩm; không nên lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật vì sẽ làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người, môi trường sinh thái.

Nguyễn Thị Thanh Nga - Chi cục Thú y và BVTV



Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập